Tết Hàn thực đã là một nét văn hóa truyền thống của người Việt Nam tuy nhiên không phải ai cũng hiểu về ý nghĩa, nguồn gốc ngày lễ này hay tại sao lại ăn bánh trôi, bánh chay vào ngày này. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về ngày Tết Hàn thực của Việt Nam ta qua bài viết dưới đây nhé!
Table of Contents
Tết Hàn thực ngày nào? Tết Hàn thực còn được gọi là ngày Tết gì?
Tết Hàn thực là một ngày lễ vào mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. Theo tiếng Hán-Việt thì “Hàn thực” có nghĩa là “thức ăn lạnh”.
Ngày Tết này có ở một số tỉnh Trung Quốc, miền Bắc Việt Nam và một số cộng đồng người Hoa trên thế giới.
Hàng năm vào ngày này nhiều gia đình Việt nam xay bột, đồ đỗ xanh để làm bánh trôi, bánh chay (ở Trung QUốc là nấu chè trôi nước), nấu xôi chè để cúng gia tiên và lễ Phật để tưởng niệm người thân trong những ngày cuối Xuân.
“Tết Hàn thực còn được gọi là Tết Thanh minh”. Quan điểm trên của nhiều người là một sự nhầm lẫn. Tết Thanh minh là một trong những khái niệm lập định của người phương Đông từ xưa.
Thường thì Tết Thanh minh vào khoảng tháng 3 Âm lịch nhưng lại được tính theo Dương lịch diễn ra từ khoảng ngày 4 hoặc 5 tháng 4 Dương lịch tùy theo từng năm.
Còn Tết Hàn thực thì được tính theo Âm lịch và cố định ngày 3/3 hàng năm vì vậy đây là 2 ngày khác hoàn toàn nhau.
Tết Hàn thực là ngày lễ của Việt nam vào ngày 3/3 Âm lịch
Sự tích ngày Tết Hàn thực
“Hàn thực” hay “thức ăn lạnh” được coi là có nguồn gốc từ Trung Quốc thông qua điển tích ông Giới Tử Thôi thời Đông Chu liệt quốc.
Theo đó và thời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn phải bỏ nước đi lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Khi đó một người hiền sĩ tên Giới Tử Thôi đã theo vua giúp đỡ mưu kế.
Một hôm trên đường lánh nạn khi lương thực cạn kiệt, Giới Tử Thôi đã phải cắt một miếng thịt đùi mình dâng lên vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết và đem lòng cảm kích vô cùng.
Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, 2 người cùng nhau trải qua bao nhiêu gian truân nguy hiểm.
Về sau, Tấn Văn Công giành lại ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu hĩnh cho những người có công trong khi tòng vong nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi.
Giới Tử Thôi cũng không hề oán giận và nghĩ mình làm được việc gì, cũng là nghĩa vụ của mình nên đã về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn.
Tấn Văn Công về sau nhớ ra và cho người đi tìm nhưng Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng. Vua hạ lệnh đốt rừng muốn thức ép Giới Tử Thôi ra nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh.
Kết cục là cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đồ nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mùng 3/3 đến 5/3 Âm lịch hàng năm).
Qua đây ta thấy Tết Hàn thực bắt nguồn từ điển tích Trung Quốc nhưng khi vào Việt Nam nó lại có ý nghĩa tâm linh khác biệt, có những thay đổi để phù hợp văn minh lúa nước Việt nam.
Tết Hàn thực bắt nguồn từ điển tích của Trung Quốc
Ý nghĩa ngày Tết Hàn thực
Tưởng nhớ những người đã khuất
Tết Hàn thực đã được hợp nhất với Tết bánh trôi, bánh chay thể hiện nét đặc trưng trong phong cách sống của người Việt. Người Việt không kiêng lửa vào ngày này và vẫn nấu nướng bình thường.
Không giống Trung Quốc, Việt Nam không tưởng nhớ đến hiền sĩ Giới Tử Thôi mà hướng tới cội nguồn và nhớ đến công lao những người đã khuất.
Tết Hàn thực Việt Nam dành để nhớ về những người đã khuất
Thể hiện truyền thống dân tộc
Từ lâu bánh trôi, bánh chay đã phổ biến trong văn hóa người Việt. Hình ảnh chiếc bánh tròn, hơi dẹt đã đi sâu vào truyền thống dân tộc thông qua thơ ca.
Có thể kể đến như hình ảnh bánh trôi nước trong thơ của Hồ Xuân Hương với phép ẩn dụ về người phụ nữ Việt Nam xưa: trong trắng, hy sinh, lam lũ, sự tảo tần…
Bánh trôi, bánh chay vào dịp Tết Hàn thực thể hiện rõ ràng văn hóa lúa nước từ xa xưa khi hai loại bánh đều được làm từ bột gạo nếp thơm, thể hiện truyền thống trân trọng thành quả lao động của người nông dân.
Bánh trôi, bánh chay thể hiện văn hóa lúa nước nước ta
Ôn lại chuyện xưa
Vào ngày lễ Hàn thực hàng năm, cả gia đình đoàn tụ quây quần bên nhau cùng làm những viên bánh trôi, bánh chay. Sau đó thưởng thức và chia sẻ về những câu chuyện của mình, những câu chuyện xưa.
Nhân nói về chuyện xưa có thể nhắc đến sự tích “Lạc Long Quân – Âu Cơ”, hình ảnh bánh trôi giúp mọi người liên tưởng đến hình ảnh “bọc trăm trứng”.
Tết Hàn Thực lúc nào cũng vậy không thể thiếu bánh trôi, bánh chay và những câu chuyện xưa nhưng vẫn còn nguyên giá trị.
Cả nhà quây quần bên nhau nặn bánh và ôn lại chuyện xưa
Ý nghĩa các tục lệ ngày Tết Hàn thực ở Việt Nam
Tục ăn bánh trôi, bánh chay ngày 3/3 Tết Hàn thực
Ở Việt Nam, bánh trôi hay bánh chay chính là “thức ăn lạnh” và chỉ dùng để cúng gia tiên, lễ Phật chứ không có liên hệ gì đến điển tích Trung Quốc hay việc kiêng lửa trong ngày này.
Người Việt thường “làm bánh trôi nước, bày cỗ bàn, cúng gia tiên” cho nên bánh trôi còn được gọi là bánh Hàn thực.
Theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức thì tục ăn bánh trôi vào ngày Hàn Thực nhiều khả năng được du nhập vào thời Lê và thịnh hành trong giai đoạn Lê Trung Hưng – Nguyễn.
Năm 1773, Lê Quý Đôn cho biết “Tục nước ta trọng nhất bánh trôi nước, mỗi năm cứ ngày mồng 3 tháng 3 thì làm bánh ấy. Người phương Bắc cũng có, gọi là Thủy đoàn”.
Theo giải thích của Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa (viết vào khoảng thế kỷ 16 thời Lê) giải thích: “Trôi nước có hiệu Thủy đoàn, trong đường ngoài bột nổi hòn lênh đênh”.
Người Việt thường “làm bánh trôi nước, bày cỗ bàn, cúng gia tiên”
Tục ăn bánh cuốn vào Tết Hàn thực
Tục ăn bánh cuốn không phổ biến như bánh trôi, bánh chay. Theo ghi chép của Lê Tắc, người thời Trần “tiết Hàn Thực, đem bánh cuốn tặng nhau”.
Qua bài thơ “Tặng bánh xuân cho ngài thiên sứ Trương Hiển Khanh”, làm năm 1291, Trần Nhân Tông viết: “Hôm nay đúng ngày mồng 3 tháng 3, trên chiếc mâm chạm hình mây đỏ bày bánh Xuân thái, đây là phong tục cũ của An Nam xưa nay”.
Theo Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, bánh Xuân thái cũng chính là tên gọi khác của bánh cuốn. Sách này đồng thời cho biết: “Quyển bính (bánh cuốn) nhiều nhân càng ngon, hiệu là bánh cuốn lăn tròn khéo thay”.
Theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức, vào thời Trần thậm chí thời Lý thì vào Tết Hàn thực người Việt ăn bánh cuốn và có tục đem bánh cuốn tặng nhau, chưa có tục ăn bánh trôi như thời Lê Nguyễn về sau.
Bánh cuốn thời đó còn được gọi là bánh Xuân thái (thái: rau), trong có nhân (có thể gồm cả rau lẫn thịt), được cuộn tròn lại, hình dạng khá gần với bánh cuốn ngày nay.
Bánh cuốn ngày nay gần giống bánh cuốn ngày xưa
Trên đây là bài viết về ngày Tết Hàn thực ở Việt Nam, hy vọng sẽ giúp ích cho bạn. Bạn có thể truy cập thanhnienvietnam.edu.vn để đọc thêm nhiều bài viết khác nhé!